Tác Phẩm Mới
  • Trang chủ
  • GIỚI THIỆU SÁCH
  • NHÂN VẬT
  • VĂN HỌC
  • NGHỆ THUẬT
  • VỀ TÁC PHẨM MỚI
Không có kết quả
Hiện thị tất cả kết quả
  • Trang chủ
  • GIỚI THIỆU SÁCH
  • NHÂN VẬT
  • VĂN HỌC
  • NGHỆ THUẬT
  • VỀ TÁC PHẨM MỚI
Tác Phẩm Mới
Không có kết quả
Hiện thị tất cả kết quả
Trang chủ GIỚI THIỆU SÁCH

Sách của tác giả Trần Đình Long

03/10/2025
tại GIỚI THIỆU SÁCH
0
Share on FacebookShare on Twitter

SỰ NGHIỆP ĐỒ SỘ CỦA GS.VS.TRẦN ĐÌNH LONG

(Về cuốn sách “GS.VS Trần Đình Long – Những dấu ấn không quên”; Nhà văn Cao Thâm chủ biên; Nxb. Dân Trí, 2020)

GS.VS. Trần Đình Long là Viện sĩ duy nhất hiện nay của Việt Nam về ngành Nông nghiệp. Ông là tác giả của 125 công trình khoa học; đã xuất bản hơn 20 cuốn sách khoa học; đồng thời là người đã trực tiếp hướng dẫn 35 nghiên cứu sinh làm luận án Tiến sĩ chuyên ngành Di truyền. Nhiều người do ông đào tạo sau này là bí thư tỉnh ủy, là bộ trưởng, lãnh đạo các địa phương, lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu khoa học, lãnh đạo các trường đại học; các giáo sư đầu ngành v.v. Ông còn là nhà quản lí, nhà hoạt động xã hội có uy tín với giới trí thức trong nước và quốc tế. Ông đã chủ trì thành lập và lãnh đạo nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp và còn tham gia nhiều tổ chức chính trị – xã hội khác.

Nhiều công trình nghiên cứu khoa học của ông đã được giải thưởng danh giá trong nước và Quốc tế. Tên của ông gắn với nhiều giống cây trồng. Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba và nhiều phần thưởng cao quý khác. Ông còn được nhiều phần thưởng cao quý của Nhà nước Liên Xô, Mông Cổ v.v.

Nhận lời viết về cuộc đời và sự nghiệp của GS.VS. Trần Đình Long, quả thật, ban đầu tôi hơi ái ngại. Nhìn sự nghiệp đồ sộ và nguồn tư liệu khổng lồ của ông cùng bạn đời, đồng thời là đồng nghiệp của ông (GS.TS. Hoàng Tuyết Minh), tôi thực sự thực sự choáng ngợp. Nhiều tư liệu của ông bằng tiếng nước ngoài; chuyên môn sâu. Với nguồn tài liệu đồ sộ này, tôi sẽ chọn lọc, viết ra sao để cuộc đời và sự nghiệp của ông được cô đọng trong khoảng 200 trang in?

Sau khi bàn bạc với ông, chúng tôi đã quyết định cách làm mới, khoa học, phù hợp với thị hiếu của bạn đọc trong thời đại bùng nổ thông tin và phương tiện nghe nhìn lấn át “văn bia” mà vẫn đảm bảo yêu cầu của nội dung với tính chân thật, khách quan. Đó là, chúng tôi phân từng chương, mỗi chương là một chuyên đề về lĩnh vực họt động của ông. Trong mỗi chuyên đề, chúng tôi thể hiện bằng hình thức “tin, ảnh”-Tức là, các sự kiện đượng khái quát cô đọng, có hình ảnh minh họa và chú thích ảnh.

Dưới đây là LỜI BẠT của ông, in ở cuối cuốn sách.

Cuốn sách “GS.VS. Những dấu ấn không quên” do Nhà văn-Nhà báo Cao Thâm  biên soạn đã khái quát quá trình học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội của tôi trong 60 năm qua. Đây là những dấu ấn trong sự nghiệp mà tôi luôn cảm thấy hạnh phúc và tự hào. Tôi hạnh phúc và tự hào vì mình và các đồng nghiệp đã tạo ra những giống cây trồng mới, được bà con nông dân sử dụng,   năng suất, chất lượng cao. Có thể, bà con nông dân không biết tôi đã được Nhà nước ghi nhận bằng những phần thưởng cao quý; được một số giải thưởng khoa học trong nước và quốc tế, nhưng nói đến tôi, bà con biết ngay, tôi là “cha đẻ” của giống đậu tương ĐT26; giống lạc L14; giống Cỏ ngọt ST88, ST77… Tôi cũng luôn tự hào vì đã góp phần đào tạo đội ngũ kĩ sư, thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó nhiều học trò đã trở thành những nhà khoa học, giáo sư đầu ngành, góp phần vào sự nghiệp phát triển ngành nông nghiệp của nước nhà.

Từ một cậu bé con nhà nghèo ở nông thôn, tôi đã phấn đấu trở thành giáo sư, viện sĩ; được đi khắp thế giới, được gặp gỡ và làm việc với những nhà khoa học nổi tiếng như GS Lương Định Của-Nhà lai tạo giống lúa nổi tiếng của Việt Nam; GS. Viên Long Bình-Cha đẻ của các tổ hợp lúa lai của Trung Quốc; GS Norman Borlaug -Cha đẻ của cuộc “Cách mạng xanh”- người đã cống hiến suốt đời để cải thiện đời sống cũng như cứu đói hàng trăm triệu nông dân nghèo trên toàn cầu; Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học LB Nga A A Chebatary (người hướng dẫn khoa học Luận án TSKH của tôi)…Và tôi đã được gặp những nguyên thủ quốc gia như Tổng thống LB Nga V.Putin; Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev; Tổng thống Cộng hòa Mondova, Varonhin; Barack Hussein Obama, Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ… Ở trong nước, tôi được tới mọi miền của Tổ quốc. Đi đến đâu, tôi cũng được bà con nông dân, được bạn bè đồng nghiệp, được học sinh cũ yêu quý, nể trọng.

Có được những thành công đó, tôi may mắn được sinh ra trong gia đình giàu truyền thống yêu nước và hiếu học; tôi may mắn được học từ những người thầy uyên bác, tận tụy; được làm việc với những đồng nghiệp, những người bạn đã hết lòng vì nhau và tôi có gia đình hạnh phúc – chỗ dựa vững chắc để tôi luôn yên tâm học tập, nghiên cứu khoa học.

Như nội dung phần đầu cuốn sách này đã giới thiệu, tôi sinh ra trên quê hương đất Tổ. Bố tôi là hương sư, giỏi tiếng Pháp. Sau Cách mạng Tháng Tám, 1945, bố tôi tham gia hoạt động cách mạng, được vào Đảng từ năm 1948. Hình ảnh in đậm trong trí nhớ của tôi là mỗi lần đi họp, bố tôi thường mang theo lá cờ đỏ búa liềm, dấu trong người. Ngày ấy, tôi không hiểu cuộc họp của bố bàn việc gì, chỉ biết, đó là những cuộc họp tất quan trọng, rất bí mật, phải có người gác. Sau này tôi mới biết, đó là những cuộc họp chi bộ Đảng ở địa phương. Và hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm ngày ấy luôn nhắc nhở tôi, dù đi đâu, làm việc gì cũng vì mục đích phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân; xứng đáng với truyền thống gia đình, truyền thống của của quê hương. Chị gái tôi, em trai tôi cũng vậy.

 Mẹ tôi ít học nhưng thuộc Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm và luôn dạy chị em chúng tôi những luân lí ở đời bằng những câu Kiều. Với tôi, những lời mẹ dạy bằng Truyện Kiều từ thuở thiếu thời vẫn văng vẳng đến tận hôm nay. Và có lẽ, những nét đẹp về văn hóa truyền thống của người Việt qua Truyện Kiều mà mẹ ru tôi, dạy chúng tôi là cội nguồn để hình thành nhân cách của tôi, luôn lạc quan, yêu đời, ham thích văn nghệ; sống nhân hậu, thủy chung; luôn hòa nhã, khiêm nhường và vì thế mà ở môi trường nào tôi cũng được mọi người yêu quý, giúp đỡ.

Bạn học của tôi ở quê nhà đa số lên đường nhập ngũ. Trong đó, nhiều bạn đã hi sinh và nhiều bạn thành đạt. Tiêu biểu là nhà thơ Phạm Tiến Duật, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-Nghệ thuật. Thời học ở nước ngoài, tôi luôn nghĩ, trong khi tôi được sống, học tập giữa bao bọc của bình yên nơi châu Âu thì bạn bè tôi đang chiến đấu nơi chiến trường ác liệt. Điều đó luôn nhắc nhở tôi hãy ra sức học tập để về phục vụ đất nước, xứng đáng với sự hi sinh của của bạn bè, của nhân dân. Và tôi đã đạt được kết quả học tập xuất sắc như cuốn sách này đã giới thiệu.

Tôi đi nhiều, quen biết nhiều, giao thiệp rộng, nhưng bạn bè chí cốt chủ yếu là những đồng nghiệp như TS. Nguyễn Mạnh Hiến; TS. Lê Văn Thân; GS. Lê Văn Liễn; GS. Nguyễn Ngọc Kính; GS. Nguyễn Văn Luật… Chúng tôi không chỉ là những nhà khoa học luôn chia sẻ kinh nghiệm trong chuyên môn, trong những hoạt động xã hội mà còn chia sẻ những buồn vui, những trăn trở trong cuộc sống. Chúng tôi nể trọng nhau; mừng vui trước những thành công của nhau trong nghiên cứu khoa học. Tôi luôn tự hào và biết ơn các bạn.

Năm nay ở tuổi 80, tôi có gia đình hạnh phúc, con cháu phương trưởng; tôi có sự nghiệp thành đạt và có những người bạn quý. Tôi bằng lòng và tự hào với niềm hạnh phúc đó. Tuy nhiên, tôi còn sức khỏe. Hàng ngày, nếu không bận công tác, tôi vẫn đạp xe hàng chục cây số quanh Hồ Tây. Tôi vẫn còn ham làm việc và thấy mình còn có ích cho đời nên tiếp tục học tập và cống hiến. Lịch làm việc của tôi vẫn luôn dày đặc. Điều trăn trở nhất của tôi và có lẽ của nhiều nhà khoa học nông nghiệp Việt Nam hiện nay là góp sức mình vào sự nghiệp phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại và toàn diện.

Tôi luôn tự hào về nông nghiệp Việt Nam. Năm 1945, hàng triệu người chết đói. Sau khi nước nahf giành độc lập, Bác Hồ đã kêu gọi toàn dân chống giặc dốt, giặc đói. Trước năm 1986, Việt Nam vẫn thiếu lương thực. Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã xuất khẩu lương thực và hiện nay đứng thứ nhất nhì thế giới nhiều mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hạt điều, cá tra, tôm…Trong đó, chúng ta đã có những giống lúa cho gạo ngon nhất thế giới. Năm nay đã có 3 giống lúa cho gạo xuất khẩu vào thị trường khó tính: EU, Úc với giá trên 1000 USD/tấn.

 Là nhà khoa học cả đời gắn bó với ngành nông nghiệp, tôi biết, Việt Nam có tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn rất cao. Chúng ta lại có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp (kinh tế nông nghiệp, kinh tế lâm nghiệp, kinh tế biển); Ta có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên (đa dạng sinh học); Có lợi thế về đất đai (đất phù sa ĐBSH và ĐBSCL, đất đỏ bazan ở Tây Nguyên); Có lợi thế về khí hậu, thời tiết (từ đèo Hải Vân vào phía Nam là khí hậu nhiệt đới điển hình, từ đèo Hải Vân ra phía Bắc là khí hậu Á nhiệt đới, có thể nuôi, trồng suốt cả năm). Năm nay (2020), kim ngạch xuất khẩu nông sản của ta đạt 41 tỉ USD, xuất đi trên 180 nước trên thế giới nhưng chủ yếu là xuất thô. Nếu đổi mới căn bản hình thức tổ chức sản xuất dựa trên nền tảng doanh nghiệp nông nghiệp liên kết với HTX kiểu mới. Nếu tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị và đột phá trong công nghệ sau thu hoạch (chế biến sâu), tới năm 2030/2045, kim ngạch xuất khẩu nông sản của nước ta có thể đạt trên 400 tỉ USD /năm, Việt Nam có thể trở thành cường quốc về nông nghiệp.

Tôi luôn đặt niềm tin như vậy và mong muốn tiếp tục được góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển ngành nông nghiệp nước nhà./.

THƠ TRẦN CHÍNH NHƯ NHỮNG HÒN QUẶNG

(Giới thiệu tập thơ “Còn mãi với thời gian” của Trần Chính, Nxb. Hội Nhà văn, 2017).

Tác phẩm của Trần Chính.

Tôi quen Doanh nhân Trần Chính qua điện thoại từ một sự việc ngoài văn chương, không tiện nêu ở đây. Sự việc đó, anh đã nhận thiệt hại về mình, giải quyết một cách nhanh chóng và nhân văn. Cũng từ đấy, chúng tôi có mối quan tâm chung, đó là văn chương. Mỗi khi sáng tác xong một bài thơ, dù đã rất khuya, anh vẫn đọc qua điện thoại cho tôi nghe, mặc dù khi đó chúng tôi chưa hề gặp nhau.

Công việc của tôi là quản lí nội dung báo điện tử; hàng ngày ngồi trên vi tính, dò từng con chữ trong các trang bản thảo gửi tới Tòa soạn đã váng cả đầu, tối về chỉ muốn nghỉ ngơi. Dù yêu văn chương nhưng vào giờ này mà nghe thơ, thú thật, tôi rất ngại. Tuy vậy, khi nghe giọng của anh qua điện thoại nồng nhiệt, náo nức, tôi không thể hờ hững đáp lời qua loa, chiếu lệ. Tôi hỏi, giờ bác đang ở đâu? Anh bảo, đang trực ở công trường Thung Pen, cách nhà chừng ba mươi cây số. Thung Pen và một số công trường khai thác khoáng sản trong huyện Quỳ Hợp thì tôi đã một vài lần đã tới đó tác nghiệp. Đó là vùng núi hoang vu thuộc miền Tây Nghệ An. Tôi chợt nghĩ, một người giàu cảm xúc, lắm nỗi niềm, đang một mình giữa bốn bề đồi núi thì cảm dồn nén rồi thăng hoa, rồi làm thơ là điều dễ hiểu. Và, khi tư tưởng và cảm xúc trút hết xuống bài thơ thì tâm trạng trở nên hững hụt, chơi vơi, cần được sẻ chia và sẻ chia với tôi một cách vồ vập, nồng nhiệt, náo nức thì cũng là dễ hiểu. Nghĩ vậy, tôi đón nhận thơ anh như người tri âm, tri kỷ. Và, lại thú thật, thơ anh bài nào cũng dài. Có những bài, anh đọc cho tôi hết hàng chục phút. Đọc xong, anh diễn đạt lại ý từng khổ, từng câu, cứ sợ tôi chưa hiểu hết nội dung, ý tứ của bài thơ. Đó là hạn chế lớn nhất của thơ anh, nhưng tôi sẽ nói sau.

Mới đây, nhân một chuyến công tác ở Hà Nội, anh hẹn gặp chúng tôi. Thoáng thấy anh, tôi đã nhận ra. Anh không khác với tôi hình dung: nồng nhiệt, cởi mở và thân thiện. Cùng đi với anh có chị Hiền, phu nhân của anh – nhân vật mà tôi đã được tiếp xúc trong các bài thơ của anh. Bữa đó, anh đưa cho chúng tôi tập bản thảo thơ, nhờ BBT. TÁC PHẨM MỚI làm thủ tục xuất bản. Nhân đây, tôi cũng giới thiệu về TÁC PHẨM MỚI để bạn đọc hiểu rằng, vì sao anh lại tìm đến chúng tôi? Thưa, TÁC PHẨM MỚI là thương hiệu chung, bao gồm TÁC PHẨM MỚI, bản in, xuất bản 2 tháng/kỳ; TÁC PHẨM MỚI điện tử (tacphammoi.net) và Công ty TÁC PHẨM MỚI, hoạt động trên lĩnh vực truyền thông, xuất bản. Nhờ có TPM và tacphammoi.net mà đông đảo khách hàng (chủ yếu là CTV, bạn đọc TPM) đã tìm đến chúng tôi, ưu tiên cho chúng tôi đảm nhận công việc in ấn, xuất bản tác phẩm của họ và anh Trần Chính là một trong những tác giả đã ưu tiên cho chúng tôi đảm nhận liên kết xuất bản tập thơ này của anh.

Thơ của anh tôi đã được nghe anh đọc qua điện thoại như đã nêu trên và được đọc một số bài đăng trên tacphammoi.net. Bây giờ tôi mới đọc đầy đủ toàn bộ tác phẩm của anh. Quy trình liên kết xuất bản của TPM là thế này: Sau khi nhận bản thảo của tác giả, BBT.TÁC PHẨM MỚI phải sửa chữa, nâng cao nội dung và viết bài giới thiệu (nếu tác giả yêu cầu) sau đó chuyển lại cho tác giả đọc. Nếu tác giả đồng ý với nội dung chỉnh sửa bản thảo, BBT mới gửi đến Nhà xuất bản xin cấp phép. Khi có giấy phép, chúng tôi tiến hành thiết kế maket, đem in, đóng xén. Với bản thảo của anh Trần Chính, tôi trực tiếp đọc và đã sửa chữa một số bài rồi gửi anh xem việc sửa chữa có làm anh vừa ý? Tôi đã có mấy chục năm làm biên tập báo chí, văn chương, đa số tác giả đồng tình, đề cao việc biên tập, sửa chữa của tôi. Vậy mà, lần đầu tiên, một tác giả mới xuất hiện trên văn đàn – là anh Trần Chính – sau khi đọc nội dung biên tập của tôi đã viết thư trả lời thẳn rằng, anh không nhất trí với phần sửa chữa của tôi! Thoạt tiên, tôi thấy như mình bị tổn thương. Nhưng là dân sáng tác, tôi biết, mỗi câu thơ anh viết ra đều đã được anh sửa chữa, cân nhắc kỹ lưỡng. Ngay khi thơ anh đăng ở trên trang điện tử tacphammoi.net, do tôi phụ trách nội dung, thi thoảng anh lại gọi điện đề nghị tôi sửa chữa câu này, chữ kia. Tôi hiểu, dù thơ anh dài như như thế nhưng cắt một chữ của anh như là cắt da thịt của anh vậy. Vì thế, tôi chỉ sửa chữa một số lỗi chính tả trong bản  thảo; còn lại gần như nguyên vẹn sáng tác của anh. Và, khi tôi nhận lại bản thảo đã qua biên tập viên của Nhà xuất bản, thật ngạc nhiên thấy rằng, dấu biên tập rất ít. Anh Nguyễn Văn Sơn, biên tập viên gọi điện giải thích với tôi rằng, tác giả từng là lính, từng là đại biểu hội đồng dân huyện, tư tưởng lập trường đã quá vững vàng!  Còn về nghệ thuật, cứ để nguyên sự xù xì thô ráp như vậy thì mới ra chất lính, chất Nghệ vốn có của tác giả. Vì thế, bạn đọc có thể hiểu rằng, tập thơ này của Doanh nhân Trần Chính như chứa những hòn quặng xù xì, chưa được tinh chế vậy.

Và, theo tôi, chính sự mộc mạc, xù xì ấy lại là ưu điểm nổi trội nhất của thơ anh, nếu không muốn nói là tính chân thực. Đây là những câu thơ anh viết tặng vợ khi anh đang trực sản xuất ở công trường Thung Pen:

“Đêm Thung Pen anh nhớ em nhiều lắm!

Nhớ ngày đầu ta mới cưới nhau

Em đi dạy anh cuốc nương, làm rẫy

Anh trồng rau, em bán rau xanh.

 

Chiều tan trường em đèo thêm bó củi

Để đêm đông ấm bếp lửa hồng

Tình đôi ta tuy nghèo mà hạnh phúc

Ăn sắn ăn khoai mà thấy ấm lòng …”

(Đêm Thung Pen nhớ em)

Khi nhắc đến bài thơ này, Chị Hiền, vợ anh, ứa nước mắt, nói: “Cái thời ấy khổ lắm.  Đọc bài thơ ni, tui bật khóc, nạ”.

Còn đây những câu thơ viết về chị chị Phạm Thị Hồng Thái, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa tỉnh Nghệ An:

“Suốt ngày, suốt đêm không khi nào ngơi nghỉ

Mà cuộc sống đời tư sao buồn lắm chị Thái ơi!

Bạn bè lứa đôi có tay bồng, tay bế

Có gia đình đoàn tụ sớm hôm

Chỉ riêng chị cô đơn trong căn phòng lạnh lẽo

Nghĩ chuyện chồng con chị khóc âm thầm

Xem cháu là con, xem nhà là công sở

Chị hiến dâng không tiếc thân mình”

(Người chị thân thương)

Những câu thơ thật mộc mạc trên khiến chị Thái cả đêm không ngủ. Chị chia sẻ trên facebok của mình như thế này:“…Đọc xong bài thơ lòng tôi trào lên bao xúc động và cả đêm tôi không sao ngủ được. Tôi nằm ngẫm nghĩ lại cuộc đời những gì đã đến, những gì đã qua đi và những gì mình đang tiếp tục bước tiếp cho đến khi nhắm mắt xuôi tay bay vào nơi cực lạc vể với tổ tiên, cha, mẹ. Ông ơi, cuộc đời là số phận chẳng? Đến giờ phút này tôi không xây dựng gia đình nhưng tôi nghĩ rằng, tôi cũng rất hạnh phúc ông ạ. Tôi cảm ơn rất nhiều đến các doanh nghiệp, doanh nhân của tỉnh Nghệ An ta đã cho tôi nhiều tình cảm và nhiều cảm hứng. Tôi cũng muốn góp một sức nhỏ bé của mình để giúp doanh nghiệp – doanh nhân Nghệ An chúng ta vượt qua bao rào cản khó khăn; bao nhiêu thăng trầm, cạnh tranh khốc liệt để đứng lên vững vàng làm giàu cho chính mình và làm giàu cho quê hương đất nước, giúp đỡ người nghèo, người khó khăn, bệnh tật vươn tới của tỉnh Nghệ An giàu lên nhờ doanh nghiệp; người nghèo sẽ không còn nghèo nữa, giảm đi những người đói khổ và suy cho cùng ông ạ, người với người sống để yêu nhau, giúp đỡ nhau. Ông ơi, nhiều khi sống một mình cũng có lúc thật buồn, từ trước đến giờ cho đến tận đến bây giờ chưa sống một mình mà khi nào cũng có các cháu bên cạnh còn sau này vài năm nữa chắc các cháu đã học hành trưởng thành hết, các cháu có công việc gia đình thì phải xa thôi; mình sống một mình hoặc bạn bè nhưng tôi tin rằng, con cháu chúng ta là con cháu hiếu thảo, phải biết công ơn bố mẹ, cô, bác, chú, dì đã góp phần nuôi nấng và rồi bạn bè những người bạn tốt, những Doanh nhân như ông  và tất cả những người mà trên đường đời ta đi quen biết khi đã hiểu nhau chân thực thì luôn quan tâm đến nhau, làm cho nhau khi nào cũng sống vui vẻ như hàng ngày ta làm thơ lên FB khi ốm đau ta đi thăm nhau v.v . Tôi cảm ơn ông nhiều lắm. Ông làm bài thơ nói rất sát, rất đúng về tui. Cảm ơn các doanh nghiệp – doanh nhân trong tỉnh ta không có ông xã đi cả cuộc đời bên mình nhưng có những người bạn thân cả nam và nữ, những người lớn tuổi hơn, nhỏ tuổi hơn những người được giúp đỡ hoặc những người giúp đỡ tôi ông ạ. Chắc mọi người luôn luôn quan tâm tôi. Ông ơi, lần nữa, bài thơ của ông tặng tôi có nhiều cảm xúc lắm. Từ bài thơ này mà tôi bộc bạch lòng mình. Cảm ơn ông nhiều và những người biết đến tôi”.

Những bài thơ trên hay giở thế nào, ta chưa bàn, nhưng chắc chắn đó là những câu thơ chân thật, đã chạm vào nỗi niềm của nhân vật thì họ mới xúc động đến vậy. Làm thơ mà khiến người đọc phải khóc, đâu có dễ!

Bên cạnh những câu thơ xù xì, thô ráp, thậm chí diễn đạt còn nôm na, tác gải còn những câu lục bát rất nhuần nhuyễn:

“Sông Thơi một quán rượu tình

Để lòng xao xuyến một mình, mình ta…

Em ơi! Sông nước bao la

Hay là quán Nướng thăng hoa một thời?”

(Tâm sự sông Thơi)

Hay là:

“Anh về mang cả tâm tình

Nhớ em, nhớ cả giáng hình ngẩn ngơ

Anh về mang cả nhạc thơ

Bài ca vẫy gọi mùa thu óng vàng

Gót sen nâng bước dịu dàng

Trong như cung nhạc giữa ngàn liễu xanh.

…”

(Chia vui)

Và đây:

“Thương nhau tắt qua bờ rào

Mẹ già không thấy anh vào lối sau.

Lối sau đi qua vườn cau

Hương cau thì ngọt, hương trầu thì cay

Cầm tay anh hỏi câu này?…”

(Tơ ương).

Và đây những câu thơ chan chứa sự đợi chờ của tình yêu đôi lứa họ thương nhau, yêu nhau và xa nhau. Mùa thu qua đi rồi mùa thu trở lại nhưng người yêu đầu của cô thôn nữ thì không bao giờ trở lại.

“Đã bao mùa thu đến

Rồi thu lại ra đi

Tuổi xuân cũng qua đi

Chỉ tình yêu ở lại

Anh ơi thu óng ả

Nghiêng cả sắc gương trời

Mà sao em cứ đợi

Tình hay lá vàng rơi”

(Mùa thu và tình yêu)

Và đây một tình yêu mộc mạc đồng quê nhưng nó bất tận như cánh đồng bất tận:

“Ta còn em một mối tình dung dị

Ngàn giấc mơ nhung nhớ về em

Ta còn em gái quê giản dị

Áo bà ba thắt đáy lưng ong.

…

Và thời gian không thể nào nghiền nát

Một niềm tin ta mãi mãi yêu em”

(Ta còn em)

Thơ Trần Chính tuy mộc mạc giản dị nhưng sâu lắng thiết tha, mỗi dòng thơ, mỗi ý thơ, mỗi bài thơ là một câu chuyện tình riêng biệt thấm đượm bản sắc thôn quê Việt Nam sau lũy tre làng:

“Thư cho anh từ hậu phương em gửi

Nơi tình thương yêu của Mẹ của Cha

Nơi hẹn hò bên cánh đồng lúa chín

Nơi có mái trường làng có bè bạn thầy cô ».

(Phong bì thời chiến tranh, phong bì thời đổi mới)

Tóm lại phong cách thơ của Trần Chính chủ đề tư tưởng nói về tình yêu đôi lứa, của một thời đạn bom, của một thời cắp sách. Thơ Trần Chính là thơ của người lính, thơ của nỗi khát khao thơ mộng mà thiêng liêng. Những người lính trong thơ Trần Chính tràn trề một tình yêu quê hương đất nước, thấm đượm một tình yêu đôi lứa với những khát vọng thống nhất nước nhà, được trở về với giảng đường đại học, để thực hiện hoài bão đem trí tuệ và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ để xây dựng một đất nước Việt Nam ngày mai tươi sáng.

“Thư của lính héo hon trong mòn mỏi

Hy vọng ngày mai thống nhất nước nhà

Mong tháng, mong ngày, mong đêm khắc khoải

Như tiếng chím rừng gọi bạn giữa màn đêm

Thư của lính lẳng lơ cùng chiều tím

Hoài bão cuồng si mơ ước học trò

Ngày trở về giảng đường đại học

Sân trường mùa thu tà áo em bay”

(Thư của lính)

Trở lại vấn đề chúng tôi nêu ở trên, đó là hạn chế của thơ anh. Nhiều bài quá dài! Chẳng hạn bài “Phong bì thời chiến tranh, phong bì thời đổi mới”. Anh đã phát hiện ra cái cái “tứ” khá hay. Rằng, thời chiến tranh, phong bì thư gói tình thương yêu, nỗi nhớ giữa người ra trận với người ở hậu phương. Cái phong bì thư thời ấy đã nâng đỡ tâm hồn người Việt, tinh thần người Việt, tạo nên khí phách, sức mạnh người Việt để chiến thắng kẻ thù. Còn thời đổi mới, cái phong bì chứa đựng sự mua bán bẩn thỉu, làm băng hoại đạo đức xã hội, nguy cơ đến sự tồn vong của chế độ. Đọc ngay tiêu đề, bạn đọc đã hiểu tác giả định nói vấn đề gì! Vậy mà, bài thơ dài tới…116 câu, trong đó phân tích, lí giải vấn đề như bài…chính luận vậy.

Tôi không phải là nhà phê bình văn học nên không dám đi sâu phân tích thơ anh. Và sự hay, dở của thập thơ tùy vào sự cảm thụ của bạn đọc. Với tôi, dù mới quen nhau nhưng rất yêu quý, kính trọng sự nồng nhiệt, cởi mở, thân thiện và thẳng thắn của anh. Và tính cách đó đã xuất hiện khá rõ trong nhiều bài thơ của tập thơ này. Nó như những hòn quặng quý, dâng tặng người thân và cuộc đời.

Hà Nội, 10/1/2017

“NGƯỜI ĐÀN BÀ GIỮ LỬA”
CỦA ĐINH QUANG VINH

(Giới thiệu tập thơ “Người đàn bà giữ lửa” của Đinh Quang Vinh; Nxb. Văn học, 2012).\

Năm 2003,  tôi lên Thái Nguyên viết bài phản ánh tiến độ xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn. Người đưa tôi đi công trường là anh Đinh Quang Vinh – khi đó anh là Giám đốc Ban Quản lý Dự án công trình xây dựng Nhà máy. Giữa vùng ngổn ngang đất đá, những hố móng khổng lồ sắt thép vươn tua tủa, anh Vinh giới thiệu với tôi, đây là hố móng tuabin, trái tim của Nhà máy, kia là hố móng ống khói v.v. Rồi anh say sưa nói về công nghệ tầng sôi tuần hoàn, lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam, cụ thể là ở công trình đang xây dựng này và một dự án khác, cũng do ngành Than xây dựng, là Nhiệt điện Na Dương. Anh cho hay, đây là công nghệ tiên tiến, không kén nguyên liệu, hạn chế ô nhiễm môi trường và nhiều ưu thế vượt trội khác so với công nghệ truyền thống đã áp dụng ở Việt Nam. Thú thật, khi đó tôi không hiểu và chưa tin lắm về những điều anh nói. Đã có nhiều ý kiến cho rằng, ngành Than mà nhảy sang làm điện là viển vông!

Nhưng sau hơn 3 năm xây dựng, hai nhà máy nhiệt trên đã đi vào hoạt động và chạy ổn định, hết công suất, mỗi năm, sản lượng điện của mỗi nhà máy đạt trên 700 triệu kWh điện. Tính theo giá điện bán cho ngành Điện hiện nay, mỗi ngày, “mở mắt ra”, hai nhà máy trên đã “đẻ” ra trên 3 tỷ đồng.

Sau thành công của nhà máy nhiệt điện Na Dương và Cao Ngạn, Tập đoàn Vinacomin xây dựng hàng loạt nhà máy nhiệt điện đốt bằng than xấu theo công nghệ tầng sôi tuần hoàn như Nhiệt điện Sơn Động (Bắc Giang), Cẩm Phả, Mạo Khê (Quảng Ninh), Nông Sơn (Quảng Nam) v.v. thậm chí còn xây dựng và chuẩn bị xây dựng các nhà máy ở vùng sâu vùng xa. v.v. Từ nhiệt điện Cao Ngạn, Na Dương, bây giờ Tập đoàn Vinacomin có cả Tổng Công ty Điện lực, quản lí hàng chục nhà máy điện và các dự án xây dựng nhà máy điện. Mỗi năm, các nhà máy điện của Tập đoàn Vinacomin cung cấp cho lưới điện quốc gia hàng tỷ kWh điện; góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu điện gay gắt ở nước ta.

Tại một số diễn đàn, có vị lãnh đạo Tập đoàn Vinacomin khẳng định rằng, nếu nói về kinh nghiệm xây dựng nhà máy nhiệt điện bằng công nghệ tầng sôi tuần hoàn, ở nước ta, Vinacomin hiện đứng đầu bảng! Điều khẳng định này khiến tôi bất ngờ và tự hỏi, công nghệ sôi tuần hoàn là thế nào? Tính ưu việt của nó ra sao? Rồi tôi chợt nẩy ra ý định đặt bài anh Vinh viết về công nghệ này để làm sáng tỏ khẳng định trên. Bài viết của anh đăng trên Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam đã phân tích, đánh giá rất sâu về chuyên môn, qua đó khẳng định năng lực hàng đầu của Vinacomin về xây dựng nhà máy nhiệt điện bằng công nghệ này.

Từ đó, mỗi lần lên tác nghiệp ở Nhà máy, câu chuyện giữa tôi với anh Vinh chủ yếu xoay quanh những đề tài mà anh chủ trì áp dụng ở Công ty. Chẳng hạn như xây dựng nguồn nhân lực để làm chủ công nghệ; hay về sản xuất gạch không nung từ tro xỉ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường v.v.Với những đề tài như vậy, tôi lại đặt anh viết bài.

Được biết những công việc của anh đã làm trong suốt 10 năm, kể từ khi xây dựng Nhà máy cho đến nay; được thấy sự phát triển ổn định bền vững của Công ty do anh làm Giám đốc, tôi cứ ngỡ anh là chuyên gia về công nghệ nhiệt điện. Nhưng tôi và có lẽ nhiều người khác đã nhầm! Anh là kỹ sư trắc địa. Từ năm 1971, anh đã làm công nhân trắc địa tại một đơn vị thuéc Bộ Cơ khí – Luyện kim. Năm 1974, anh thi đỗ vào khoa Trắc địa, Trường Đại học Mỏ – Địa chất. Năm 1980, sau khi tốt nghiệp Đại học vµ tèt nghiÖp kho¸ sÜ quan dù bÞ ph¸o binh, anh về làm việc tại Mỏ than Khánh Hòa và từ đó đến nay anh gắn bó với ngành Than, trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau. Tháng 10, năm 1994, khi Tổng Công ty than Việt Nam được thành lập, anh được bổ nhiệm là Trưởng Ban Kế hoạch của Tổng Công ty (nay là Tập đoàn Vinacomin).

Biết nhau đã lâu, làm việc với anh đã nhiều nhưng dường như chẳng bao giờ chúng tôi nói đến chuyện về văn chương. Một hôm, gặp tôi, anh đưa bản thảo bài thơ, bảo tôi đọc, nếu thấy được thì cho đăng trên Tạp chí Than. Bài thơ có tên là “Cảm xúc tháng Mười”, của tác giả Hoa Lư. Khổ đầu thế này:“Tháng Mười về trái trám rụng vườn sau/ Chim cu gáy đồng xa vàng lúa chín/ Sương giăng trắng mảnh vườn kỷ niệm/ Chút heo may dẫn lối thu về…”.

Những câu thơ mở đầu của bài thơ thật nhuần nhuyễn, đằm thắm, khiến tôi bất ngờ, bèn hỏi Hoa Lư là ai? Anh tủm tỉm cười, bảo là của anh. Từ đó, bút danh Hoa Lư thi thoảng xuất hiện trên Tạp chí Than – Khoáng sản VN và một số tờ báo khác. Cứ nghĩ anh là “nhà thơ trẻ” nhưng thực ra, anh làm thơ đã lâu, bài thơ đầu tay anh viết từ năm 1969, nhưng anh không thật chuyên tâm vào sáng tác thi ca. Đến năm 2012, anh mới cho xuất bản tập thơ “Người đàn bà giữ lửa”, do Nxb. Văn học ấn hành.

Là người nhiều năm gắn bó với cuộc sống sôi động của người thợ ngành Than; lăn lộn trong nắng gió công trường, nhưng thơ anh chủ yếu nói về quê hương đất nước, về tình yêu với cảm xúc trong trẻo và nói về thế sự với những suy tư, những triết lý sâu xa. Có lã đó là sự khác biệt ở anh với những người làm thơ trong ngành Than – Khoáng sản Việt Nam. Chẳng hạn, viết về cái làng nhỏ quê anh ở ven bờ sông Chanh, anh có những câu thơ thật cảm động, đau đáu một nỗi nhớ nhung cái làng quê Bắc bộ điển hình ấy: Đời cứ theo dòng trôi biệt biệt/ Qua những làng quê, những làng quê…/Không dưng ai nhớ ai đâu nhỉ/ Chỉ có hồn quê mãi gọi về. (Hồn quê).

Dòng sông Hồng mênh mang nổi tiếng từ ngàn xưa, là người Việt mấy ai không nghe đến, biết đến, còn anh thì cảm nhận nó như là biểu tượng của tinh thần đấu tranh bất khuất và lao động cần cù của nhân dân Việt Nam qua biết bao thế hệ: Hồng Hà là sợi chỉ đỏ chảy xuyên/ Nối những tâm hồn những ước mơ dân tộc  (Sông Hồng)

Đất nước mình do đặc điểm địa – chính trị đặc biệt nên phải hứng chịu rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, hứng chịu nhiều nỗi đau, nên anh viết: Thắp nén nhang trước bàn thờ Tổ quốc/ Lòng đau thầm bao thế kỷ chiến tranh. (Cổ Loa).

Nhưng âm hưởng yêu thương, tự hào, lạc quan vẫn là âm hưởng chủ đạo của tình yêu quê hương đất nước trong thơ anh: Rồi chầm chậm thấm sâu vào lịch sử/ Những mái chùa cong giếng nước sân đình/ Em như ngọc ẩn trong truyền thuyết cổ/Có một ngày toả sáng cuộc đời anh. (Hoa bằng lăng).

Cũng như bao người làm thơ khác, mảng thơ về tình yêu của anh cũng khá phong phú, quyết liệt: Dẫu sâu ba thước đất/ Dẫu bạn cũ lãng quên/Thì em, em hãy nhớ/ Có một tình yêu anh.(Trên mộ chí đơn sơ)

Thơ anh cũng phản ánh mọi cung bậc tình yêu: đợi chờ, nhớ nhung, hờn giận, yêu thương… nhưng tuyệt nhiên không có trách móc:

Người ta cứ nói/Có hề gì đâu/Vì tim tôi đã…/Hình em khắc sâu.

(Vì tim tôi đã…)

Đó có vẻ như là thứ tình yêu cổ điển, sâu sắc mà kiệm lời, vốn dĩ phổ biến ở thế hệ anh: Thật vô ích khi người ta cứ cố/Trải lòng mình trên trang giấy tinh khôi/Tình yêu như lửa hồng âm ỉ/Cháy trong tim không thể cất thành lời. (Gửi…).

Anh có sự cảm thông rất chân thành với thân phận con người, những người nghèo khó, lam lũ, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em, vốn là kẻ khó nhất trong những kẻ khó, kẻ lam lũ nhất trong những kẻ lam lũ: Thương chú bé đánh giày/ Hòm nghề cao tới ngực/ Xưa nơi ta hát ca/Nay nơi chú kiếm sống. (Lối cũ trong công viên).

Tuy nhiên anh luôn tin vào điều thiện trong cuộc đời này, tin rằng với sự lao động lương thiện và tình yêu thương con người sẽ giúp người ta vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, chiến thắng được số phận, tin rằng mọi thứ sẽ qua đi nhưng tình yêu mãi mãi còn lại.

 5/2012

“CHẲNG CÓ AI TẺ NHẠT TRÊN ĐỜI…”

      (Giới thiệu cuốn sách “Dòng sông chảy”- tập truyện và ký của Nhà báo Thái Hà. Nxb. Hội Nhà văn, 2018).

Tôi thân với anh Thái Hà cách đây gần 20 năm, khi chúng tôi cùng học lớp quản lí báo chí do Trường Đại học Báo chí Lille của Pháp tổ chức tại Việt Nam. Cùng lớp với chúng tôi ngày ấy, đa số sau này đều làm lãnh đạo các cơ quan báo chí, truyền thông. Còn anh Thái Hà vẫn mải mê “bút nghiên”, nhận bằng Thạc sĩ báo chí và các văn bằng, chứng chỉ về quản lí để rồi “yên vị” nằm trong quy hoạch…treo; “yên vị” làm nghề cho tới lúc nghỉ hưu.

Được chuyên tâm làm nghề báo cũng thích thú; được đi, được viết; được khám phá bao điều mới lạ của cuộc sống và được công khai tư tưởng, quan điểm yêu ghét của mình trên mặt báo. Nhưng với anh Thái Hà, chuyên “thâm canh” mảng Xây dựng Đảng – lĩnh vực khô khan, nghiêm ngắn, không dễ viết, nên anh ít được tung hoành như các phóng viên khác. Dù vậy, với vai trò là Trưởng ban Chính trị (khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, Báo Hà Tây sáp nhập vào Báo Hànộimới, anh là Phó trưởng ban), anh Thái Hà đã chuyên cần, say mê nghiên cứu thực tế, tham mưu cho Ban biên tập Báo tổ chức tổng kết được không ít điển hình tiên tiến, mô hình mới trong mảng đề tài vốn nhiều nhà báo – nhất là nhà báo trẻ ngại dấn thân này. Đáng chú ý là việc anh đã tổ chức tuyên truyền thành công các điển hình như: “Đổi mới phong cách lãnh đạo ở Đảng bộ huyện Phú Xuyên” – một điển hình thâm canh lúa của toàn quốc; “Hoài Đức phát triển kinh tế công nghiệp trong thời kỳ CNH, HĐH”; “Phát triển Đảng trong học sinh, sinh viên ở Đảng bộ huyện Chương Mỹ”; “Làm thế nào để thu hút thanh niên nông thôn vào tổ chức Đoàn”…

Tôi còn nghe nhà báo Phạm Thị Hoàn, khi ấy là Phó Tổng biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng của Ban Tổ chức Trung ương (cùng học lớp Báo chí Lille với chúng tôi) kể rằng vào những năm cuối thập niên 90 rất nhiều địa phương lúng túng trong việc sắp xếp, tổ chức mô hình hoạt động của chi bộ ở cơ sở. Bằng tư duy lý luận và nhạy bén thực tế, nhà báo Thái Hà đã đề xuất một giải pháp khả dĩ giải quyết bất cập đó thông qua tác phẩm “Mô hình nào cho chi bộ Đảng nông thôn?” đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng, gây tiếng vang trong giới làm công tác xây dựng Đảng và sau đó được nhiều tổ chức cơ sở Đảng vận dụng. Nhiều tác phẩm báo chí của anh về mảng đề tài này đã đoạt giải cao của Giải Báo chí toàn quốc và của tỉnh…

Ngoài “thâm canh”  nội dung thuộc lĩnh vực Xây dựng Đảng của tòa soạn, anh Thái Hà còn “tăng gia” thêm các đề tài khác thuộc lĩnh vực văn hóa – xã hội với nhiều thể loại: phóng sự, ghi chép, kí chân dung…. Anh còn sáng tác truyện ngắn, sáng tác kịch bản sân khấu cho nhiều đơn vị tham dự hội thi nghiệp vụ, hội diễn văn nghệ quần chúng và tham gia giảng dạy tại Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và một số Trường đại học khác.

Một số tác phẩm báo chí và văn học “tăng gia” được, anh chọn lọc rồi “gom” lại thành hai phần: Truyện ngắn và kí sự nhân vật để xuất bản với tên chung là “Dòng sông chảy” mà bạn đọc đang cầm trên tay.

Đã đọc những bài báo chính luận của anh Thái Hà đăng trên báo, giờ đọc các truyện ngắn của anh, tôi cảm giác như đọc truyện của tác giả khác cùng tên vậy. Nếu những bài báo chính luận nghiêm ngắn, lập luận chặt chẽ, sắc bén thì truyện ngắn của anh lại rất nhẹ nhàng, rất đời; câu chữ dung dị mà khoáng đạt; cảm xúc dạt dào, những phát hiện tinh tế. Đây là những đoạn anh miêu tả phong cảnh: “…Bầu trời tím đen, bị những tia chớp xanh đỏ rạch ngang, rạch dọc giống như lấy cái dùi sắt nung nóng trắng vụt vào một khối sáp đen. Những tiếng sấm ùng ùng kèm theo tiếng sét đanh bổ xuống sát sạt. Cả bãi san mênh mông bỗng chốc thu hẳn lại dưới bầu nước trời đêm…” (Dòng sông chảy); “…Trời ấm, nắng hoe vàng, lao xao gió, không gian chiều cuối năm như nhẹ bỗng, tan chảy, làm người ta bâng khuâng, nao lòng…”(Bánh chưng Tết)

Và đây, anh miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc và tinh tế: “…Hừ! Ông lạ gì nó. Lắp cho dì ruột bộ loa đài, tiền không kém người ngoài nửa trinh, đến khi trục trặc, nó phớt lờ bảo hành, nói, nó trắng trợn tuyên bố: Cắt! Em vợ cưới, nó nhờ thằng bạn mang bộ trang âm của nó đến phục vụ và lấy tiền…công thuê. Thật vô đối..”.(Nhánh hoa đại); “…Những tò mò lạ lẫm bất ngờ, toan tính vụng về của tuổi trăng tròn cứ tưởng cao siêu mà thành ngớ ngẩn. Nhìn thấy nhau, thinh thích, anh vội khen suối rừng quê em đẹp. Một chút hơi thở của gái trai mới lớn, anh đã chê thành phố đông đúc mà vô tình, vô cảm… Những cụ thể, giản đơn, rạch ròi làm người ta vững chãi…” (Dòng sông chảy).

Những nhân vật trong các truyện ngắn của anh rất gần gũi. Tôi cảm tưởng rằng, đó là chuyện của  những người thân trong gia đình anh, của bạn bè anh, nên đọc cảm động như chuyện “người thật, việc thật”. Tuy nhiên, có lẽ vì viết những chuyện “mắt thấy, tai nghe”, xây dựng hình tượng nhân vật từ các nguyên mẫu nên truyện của anh thiếu kịch tính, thiếu những nhân vật có tính cách riêng biệt chăng? Cũng có lẽ, là người hay giữ kẽ, ngại va chạm, ngại đao to búa lớn nên cách giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong truyện của anh cũng có vẻ như cứ thuận theo tự nhiên, bàng bạc, thiếu dứt khoát, mạnh mẽ…

Như đã nói trên, anh Thái Hà “tăng gia” nhiều thể loại kí báo chí nhưng trong tập sách này anh chỉ chọn ra ba tác phẩm viết về ba nhân vật có số phận tưởng là phẳng lặng, bình ổn nhưng cực kì độc đáo và thú vị. Anh chia sẻ với tôi, anh rất thích hai câu thơ của EVTUSHENKO “Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời/ Mỗi số phận chứa một phần lịch sử…”. Thật vậy, trong ba nhân vật trong cuốn sách này, nếu không được anh giới thiệu kĩ lưỡng, chắc rằng, chẳng mấy ai hiểu được thân phận của họ, cống hiến của họ với đất nước.

Tình cờ, trong chuyến tác nghiệp ở miền Tây Nghệ An, anh Thái Hà gặp một doanh nhân tên là Trần Chính. Nếu hỏi thăm xã giao, doanh nhân Trần Chính không có gì nổi bật. Doanh nghiệp của ông không lớn; chức vụ “to” nhất của ông chỉ là Phó Chủ tịch Hội doanh nghiệp tỉnh Nghệ An. Thơ của Trần Chính được xuất bản hai tập, được phổ nhạc nhưng chưa phải là những tác phẩm nổi tiếng. Vậy mà Thái Hà đã viết về doanh nhân Trần Chính trong hơn một trăm trang in với thân phận bi tráng một cách cuốn hút. Đó là chuyện về thời thơ ấu gian khổ của Trần Chính (phần này viết chung cùng Cao Thâm); chuyện Trần Chính viết đơn bằng máu tình nguyện đi chiến đấu; chuyện những trận đánh khốc liệt; rồi chuyện Trần Chính trở về với đời thường loay hoay kiếm sống bằng đủ thứ nghề: Buôn chuyến, đi tìm trầm, “chơi” đá đỏ, khai thác chế biến quặng thiếc, khai thác đá trắng…và cuối cùng là xây dựng doanh nghiệp đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua kí sự “Đá trắng”, bạn đọc sẽ liên tưởng rằng, đây không chỉ là chuyện của doanh nhân Trần Chính nữa mà là chuyện bi tráng của một thế hệ thanh niên buộc phải lỡ dở học hành, “xếp bút nghiên” để cầm súng đánh giặc rồi hoàn dân xây dựng đất nước.

Nói đến Tiến sĩ Trần Anh Vinh, hầu hết cán bộ công nhân ngành Than đều biết, ông là tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam về ngành khai thác mỏ; ông từng giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Điện và Than rồi quyền Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than. Nhưng ít người biết, những công trình hiện đại của ngành Than hiện đang phát huy hiệu quả đều có dấu ấn chỉ đạo của ông; ít ai biết những góc khuất trong đời sống tình cảm của ông. Qua “Chuyện về cựu Thứ trưởng Trần Anh Vinh”, bạn đọc không những hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của nhà khoa học, nhà quản lí Trần Anh Vinh với tầm nhìn xa, tư duy sắc bén, người anh cả hào hoa của giới khoa học công nghệ ngành Than, mà đây còn là tài liệu quý về lịch sử phát triển ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam.

Ở ngành Than và ngành Điện lực, nhiều người đã biết ông Nguyễn Đức Phan qua công việc, trong giao tiếp và cả trên truyền hình, với tư cách là Thứ trưởng Bộ Mỏ và Than; Thứ trưởng Bộ Năng Lượng; Thứ trưởng Bộ Công nghiệp suốt 16 năm. Nhưng có lẽ ít người biết, thời làm việc ở vùng mỏ Quảng Ninh, ông vi phạm pháp luật, bị đi tù. Trong lịch sử Nhà nước Việt Nam mới, chưa có ai bị đi tù sau đó phấn đấu lên chức thứ trưởng như ông Nguyễn Đức Phan. Vì sao ông bị đi tù? Vì sao bị tước đảng tịch, tước quyền công dân, ông vẫn bền gan làm lại từ đầu và Nhà nước ta vẫn trao cho ông những trọng trách lớn? Kí sự “Ông Nguyễn Đức Phan – một phạm nhân trở thành Thứ trưởng” sẽ giải đáp những câu hỏi thú vị ấy.

Đọc truyện ngắn và kí sự của Thái Hà, bạn đọc thấy rõ vốn sống và bút pháp của một nhà báo từng trải. Trước khi làm báo chuyên nghiệp, anh Thái Hà là kĩ sư nông nghiệp, sau đó vào quân đội, là sĩ quan, phục vụ tại chiến trường miền Tây Nam bộ. Ra quân, anh trở về với nghiệp làm báo, khởi đầu là báo Hà Sơn Bình và nghỉ hưu ở báo Hànộimới.

Với vốn sống được trải nghiệm trong quân đội và kiến thức chuyên môn sâu cả về xã hội cũng như lĩnh vực nông học nên những trang viết của anh về đời sống của người lính, những trận chiến đấu và những vùng đất phên dậu, những trang viết về các loài cây, về côn trùng…trong “Đá trắng” được anh miêu tả sinh động, chân thực như sờ nắm được…

Công bằng mà nói, tiếp xúc ngoài đời, anh Thái Hà là người cởi mở, thân thiện và nhiệt tình. Đọc tác phẩm của anh cũng cho thấy như vậy. Kể cả tác phẩm văn học, hình tượng nhân vật của anh cũng “thật” và giản dị như đối tượng trong các ký sự của anh – như nó vốn có vậy. Điều này có thể hiểu rằng, chất cận văn học trong sáng tác của nhà báo Thái Hà “mạnh” hơn chất văn học đòi hỏi. Và như vậy, để dấn sâu hơn vào lãnh địa này, anh cần có lối đi “mở” hơn…

Nhưng rõ ràng, bên trong vẻ thuần túy, nhà báo Thái Hà vẫn ẩn chứa những cảm xúc văn chương đẹp và đầy bất ngờ, đáng khám phá, hiện hữu trong tập “Dòng sông chảy” này.

Ngày 5 tháng 6 năm 2018.

TÁC PHẨM CHỌN LỌC CỦA “ĐỔNG LÍ VĂN PHÒNG”  LÂU NHẤT TẬP ĐOÀN TKV

 Đó là tập sách chọn lọc tác phẩm báo chí, văn học của  anh Nguyễn Quang Tình, hiện là Trợ lý Tổng giám đốc, Tổng Công ty Công nghiệp Việt Bắc. Tính đến 31 tháng 3 năm 2013 – khi chuyển sang làm Trợ lý Tổng giám đốc – anh Tình đã làm công tác văn phòng 37 năm, trong gần 20 năm làm “đổng lí”- Chánh văn phòng – của Tổng Công ty này. Có lẽ anh là một trong những người làm công tác văn phòng lâu nhất mà tôi được biết.

Khi tuyển chọn, biên tập tác phẩm của anh để xuất bản sách, tôi nhận được tập tư liệu đồ sộ với hàng nghìn bài viết của anh đã đăng trên các báo, tạp chí; in trong các tác phẩm với nhiều tác giả và tập truyện kí “Trăng rừng” (tập sách riêng của anh). Ngoài những tác phẩm của anh, tôi còn nhận được bài viết của các ông: Đoàn Văn Kiển, cựu Chủ tịch Tập đoàn TKV, Vũ Văn Đông, Tổng giám đốc Tổng công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc- Nơi anh làm việc gần 40 năm và nài viết của các nhà văn, nhà báo: Võ Khắc Nghiêm, Vũ Thảo Ngọc, Nguyễn Quốc Trung…viết về anh. Từ nguồn tư liệu trên, tôi đã tuyển chọn; trực tiếp làm các các khâu trong quy trình xuất bản để ra đời cuốn sách “Nguyễn Quang Tình-Tác phẩm chọn lọc” với gần 700 trang in, khổ 16X24 cm do Nxb. Hội Nhà văn ấn ành, 2014. Đây là cuốn sách đồ sộ, niềm mơ ước của nhiều người làm nghề viết như chúng tôi.

Tôi biết anh Tình từ thời tôi làm ở Báo Bắc Thái (năm 1996, Báo Bắc Thái chia tách thành Báo Thái Nguyên và Báo Bắc Kạn). Bữa đó, cơ quan tôi tổ chức tổng kết cuộc thi viết báo, anh Tình được Tòa soạn mời dự với tư cách là tác giả đoạt giải của cuộc thi (sau này anh Tình còn được nhiều giải báo chí do Báo Thái Nguyên và các báo khác tổ chức). Đó là người đàn ông tầm thước, mặc bộ đồ trắng, sơvin gọn gàng, đi giày mõm ngóe, trông như công chức thời Tây! Tôi mời anh điếu thuốc lá “Sông Cầu”, anh lịch sự từ chối. Đến bữa, chúc mừng anh chén rượu, anh nâng chén lên nhấp ngụm nhỏ rồi đặt xuống. Khi đó anh Tình đang là Phó Chánh Văn phòng Công ty than Nội địa, nay là Tổng Công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc.

Hơn chục năm sau, tôi về Hà Nội, gặp lại anh. Anh vẫn diện áo trắng, quần trắng, sơvin gọn gàng, vẫn giày mõm ngóe bóng lộn. Mời anh thuốc lá, mời rượu, anh đều từ chối. Hỏi anh, đã lên chức gì rồi? Anh Tình bảo, vưỡn làm anh “ Đổng lý”!

Công ty than Nội địa, Công ty công nghiệp mỏ Việt Bắc, nay trở thành Tổng Công ty; đã hai lần chuyển địa điểm, từ Đông Anh, sang 30B Đoàn Thị Điểm, quận Đống Đa, nay là ngôi nhà nguy nga, tọa lạc ngay đầu phố Phan Đình Giót, quận Thanh Xuân, Hà Nội và anh Tình vưỡn bền bỉ với vai trò “đổng lí”; vẫn là “cánh tay đắc lực” đi qua suốt 6 đời Giám đốc, Tổng giám đốc, 5 đời Chủ tịch quản trị- Hội đồng thành viên Tổng Công ty. Tôi từng làm việc ở 4 cơ quan báo chí, được tác nghiệp tại nhiều cơ quan, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện… nhưng chưa thấy ai làm công tác văn phòng và “đổng lí” lâu như anh Nguyễn Quang Tình. Tính đến ngày rời vị trí “đổng lí” Tổng Công ty này, anh Tình đã làm nghề văn phòng 37 năm, trong đó 18 năm làm cán bộ quản lý Văn phòng.

Chánh văn phòng là vị trí, theo tôi, đặc biệt quan trọng. Ở nước ta “nghề gì cũng có Trạng nguyên” (câu này rút trong cuốn “Đàn hương hình” – tác phẩm đoạt Giải Noben của Mạc Ngôn); nghề gì cũng có danh hiệu, nhưng “đổng lí” thì không! Và, các trường đại học ở ta rất nhiều, nhưng chẳng có trường nào có khoa chuyên đào tạo công tác văn phòng. Vậy mà, nhiều công to việc lớn trong cơ quan đơn vị đều do các bác “đổng lí” sắp xếp với vai trò tham mưu  cho thủ trưởng đơn vị. Tôi lại cho rằng, làm “đổng lí”, ngoài sự tận tụy, trung thành, còn phải có kiến thức sâu rộng về mọi lĩnh vực thì mới làm tốt vai trò tham mưu quan trọng cho lãnh đạo đơn vị và điều hành thông suốt công việc văn phòng của cơ quan.

Nghề anh Tình được học và trở thành Kỹ sư khai thác mỏ ở Trường Đại học mỏ- Địa chất Hà Nội, tưởng không liên quan gì lắm đến công việc phải đảm nhận! Chắc chắn, anh Tình phải có những yếu tố gì nhằm đảm bảo cho đủ những phẩm chất ấy thì mới làm “đổng lí” ngần ấy năm.

Làm “đổng lí”, nhu cầu phương tiện đi lại phục vụ việc cơ quan, nhu cầu ăn uống v.v. là hết sức bình thường. Nhưng với anh Tình, nếu đi họp hay có công việc gì ở Hà Nội, anh thường đi xe bus; thường ngày, anh thích ăn phở sáng và bún đậu phụ vỉa hè; trong các bữa tiệc, hay tiếp khách, anh ăn qua loa và tuyệt nhiên không uống ruợu. Có lần, trong bữa tiệc, tôi “biên chế” cùng mâm với anh. Bữa đó, nhiều vị khách đến mâm tôi mời rượu. Mọi người cạn chén, riêng anh Tình thì từ chối. Có người, là cấp trên anh Tình, bỗ bã: “làm chánh văn phòng như anh mà không biết uống rựợu thì xin nghỉ đi sang mà làm việc khác!”. Anh Tình tái mặt, nhưng vẫn từ tốn: “Các anh thông cảm. Chiều tôi còn phải làm việc. Bình thường tôi nói năng không được chuẩn lắm.“Tửu nhập-ngôn xuất”. Uống rượu vào, làm ảnh hưởng đến công việc, ảnh hưởng đến người khác nên tôi không dám uống”. Anh kể, có vị giám đốc mà anh làm “ tham mưu” gần 10 năm, vào thời điểm nhiều việc nhất là lúc công ty chuẩn bị kỷ niệm ngày thành lập. Một mình anh vừa đảm nhận chức Chánh văn phòng kiêm thường trực Hội đồng thi đua (dạo ấy đang khuyết chức phó văn phòng) công việc nhiều, ông giám đốc lại là người mang… mệnh hỏa, lúc đi công tác về nghe báo cáo công việc, chưa đủ thông tin, ông ta lo việc không chạy cứ quát um cả lên, thậm chí còn vừa mắng, dọa cho nghỉ việc đi đến 4 lần. Biết tính ông lãnh đạo này nóng, anh giận run người nhưng vẫn cam chịu. Hôm sau, khi ông giám đốc bình tĩnh lại, anh vào gặp, thưa: “Anh ạ! Hôm qua, anh chưa nghe hết đã vội nóng, tôi không có ý kiến. Bây giờ, anh đã bình tĩnh tôi xin hỏi lại rằng, anh thấy tôi không làm được việc bảo tôi nghỉ đi, anh giao việc lại cho ai để tôi bàn giao?”. Ông giám đốc cười hề hề: “Ông chỉ vẽ chuyện, lúc tôi bức xúc nóng lên mà chả nói ông, quát ông thì nói ai, quát ai! Ông làm văn phòng thì đành phải chịu vậy thôi!” Lần khác, một giám đốc mới về nhận chức, anh Tình gặp và nói thẳng “Anh ạ! Tôi làm Chánh văn phòng nhưng không uống được ruợu, anh có thay người khác thì thay đi kẻo tôi sợ mình không hoàn thành nhiệm vụ!” . Ông giám đốc bảo: “ Tôi chỉ cần người làm được việc, uống ruợu hay không là tùy ông, tôi không quan tâm đến việc ấy”!

Có một ông nhà báo họ Vũ theo dõi ngành Than lâu năm, khi đến làm việc gặp anh Tình cùng ăn tối ở Khách sạn Thái Nguyên, ông nói: “Làm cái anh Chánh văn phòng thì chỉ lo việc ăn, ngủ, cờ, đèn, kèn, trống và để sai vặt …”. Anh Tình nhẹ nhàng bảo với ông họ Vũ kia: “Anh hơi chủ quan và hiểu nhầm đấy, tôi đây làm Chánh văn phòng là người tham mưu, giúp việc cho  giám đốc, hoạch định cả mục tiêu, kế hoạch và nhiều việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, đối nội, đối ngoại… Nếu chỉ làm riêng những cái việc anh nói thì chỉ cần trình độ của một người tạp vụ cũng lo được. Anh là người có chữ, được nói được viết thì nên thận trọng kẻo lại xúc phạm đến tập thể những người làm văn phòng. Sao anh không nhìn ra thế giới và trong nước, có người từ Chánh văn phòng rồi làm Tổng thống, làm Thủ tướng… ở nước Nga, Nhật Bản… còn ở ta cũng có người lên làm Chủ tịch quốc hội, làm Phó thủ tướng đấy thôi !”

Ôi chao, làm cái anh “đổng lí”, mỗi ngày cần phải điều chỉnh mình từ trang phục,  hành vi để không ảnh hưởng đến văn hóa công sở. Buổi sáng mặc  bộ đồ sáng, nửa buổi phải dẫn đầu một đoàn đi viếng đám tang, thế là phải thay ngay bộ quần áo đen, ca vát đen, buổi tối có cuộc chiêu đãi khách nước ngoài lại thay bộ khác. Ngoài trang phục cần phải tỉnh táo để giải quyết vô số công việc, trong đó có những việc không thể gọi bằng tên, cũng có những việc “đại sự” ở cơ quan, đã mệt, lại còn phải đương đầu với những áp lực từ nhiều phía; lúc vui cũng không được vui hết mình; lúc ăn cũng phải giữ ý tứ; lúc tự do, nhân cách bị xâm phạm cũng phải kìm nén, lựa thời cơ, nói đúng lúc, đúng chỗ. Làm “đổng lí” một ngày đã mệt, huống gì làm bền bỉ suốt mấy chục năm!

Dù công việc bận rộn quanh năm vẫn viết đều đều, đăng trên các báo và tập hợp xuất bản mấy cuốn sách. Anh viết nhiều thể loại: Báo chí, thơ, truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, bình luận văn chương, nghiên cứu văn hóa…. Bài viết của anh, ở thể loại nào cũng lắm thông tin, nhiều sự việc; nhân vật trong truyện của anh, dù hư cấu vẫn thấp thoáng nguyên mẫu ngoài đời; đến nỗi, tờ TÁC PHẨM MỚI (Chuyên về văn học nghệ thuật do tôi phụ trách nội dung) đăng truyện của anh, có người gọi điện đến hỏi tôi: “Ông Tình viết thế là định ám chỉ ai?”…Phải chăng, cái nghề văn phòng được tiếp xúc nhiều người, được biết nhiều chuyện, trong đó có cả những chuyện “thâm cung bí sử” và anh dùng phương tiện nghệ thuật để “thăng hoa” chăng?

…Tôi đã đọc hầu hết các tác phẩm của anh Tình đề chọn lọc in thành cuốn sách đồ sộ này. Đánh giá về chất lượng nghệ thuật thuộc về bạn đọc. Tôi chỉ khẳng định, chắc chắn, những gì anh Tình đã viết, được đăng tải trên các báo và tập hợp xuất bản thành sách, chưa nêu hết một phần vốn sống mà anh Tình đã tích lũy được từ cuộc sống, sách báo, tài liệu và từ nghề văn phòng suốt 37 năm qua.

                            Hà Nội, tháng 8 năm 2014

   

                                      DÒNG CHẢY CỦA LA GIANG

(Về tập thơ “Dòng chảy” của La Giang (Phạm Khắc Mã), Nxb. Hội Nhà văn, 2017).

Là Giang là bút danh của anh Phạm Khắc Mã, hiện ở phường Túc Duyên, Tp. Thái Nguyên. Tôi được biết, tác giả La Giang là kỹ sư cơ khí chế tạo máy, từng tham gia giảng dạy tại Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên; Tham gia các dự án đầu tư của Tập đoàn Công nghiệp Than  – Khoáng sản Việt Nam (TKV); là cộng tác viên thân thiết lâu năm của Tạp chí Văn nghệ xứ Lạng, Báo Thái Nguyên, Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam và các báo TW khác; đã có nhiều thơ và tác phẩm báo chí đăng trên các báo TW và địa phương, đặc biệt, bài Phóng sự điều tra tìm đước 12 hài cốt của Bộ đội tham gia chống Pháp năm 1947.

Ngoài sáng tác thơ và viết báo, La Giang còn sáng tác ca khúc ca ngợi quê hương, ca ngợi ngành công nghiệp Than- Kháng sản. Ca khúc của ông từng được giải trong các cuộc thi như “Bừng sáng Na Dương” – Hội VHNT Lạng Sơn trao giải 3 năm 2005;  “Cao Ngạn ánh điện niềm tin” – Giải 3 Tập đoàn TKV năm 2008 v.v…

Tập thơ DÒNG CHẢY tập hợp các bài thơ của ông đã được đăng trên các báo, tạp chí, được giao lưu và tâm huyết. Có thể nói, DÒNG CHẢY là hiện thân của tác giả qua 3 chương “Cõi nhà; Chốn nghiệp và Lãng du”. Tác giả tâm huyết với DÒNG CHẢY vì nó thể hiện gần hết cuộc đời: Tu gia, lập nghiệp và lãng du; nó cũng là cuốn sách để lại cho bạn đọc và người thân suy ngẫm để “có hay không!” ? Cái đó trong mỗi chúng ta ai cũng  cảm thấy mình trong đó:

Đời ta giọt nước chảy theo dòng

Chỗ trũng, nơi cao, chỗ đục trong

Núi đá, bờ khe len khắp chốn

Tưng bừng thác dốc, tới thong dong.

 

Xuân sang, hạ nối theo dòng chảy

Chắp bút trần ai để tạc lòng

Cát bụi ngày mai rồi sẽ đến

Ai tường giọt chảy? Có hay không!

Thơ La Giang dung dị, không màu mè, nói lên tiếng lòng với cuộc sống của mình, gia đình trong xã hội; đồng thời cảm nhận về tình yêu quê hương, yêu nghề nghiệp, yêu bạn bè và tất yếu là những vẻ đẹp con người trong cuộc sống đời thường.

 “… Miên man trong giấc mơ tình

Thấy cô hàng xóm một mình chơi mưa..”

La Giang cũng xác định vị trí của mình, không tham lam, không để cảm giác vựơt khỏi lý trí :

Giọt nước ơi! xin em em đừng rơi nữa

Để hình em lóng lánh trước bình minh.

Nét cong kia cứ tha thướt đa tình

Anh cứ khát, xin em đừng rơi nữa.

Cái điệp khúc “…xin em đừng rơi nữa”  đó là phản ảnh thực trạng của xã hội có nhiều cám giỗ, là đấng nam nhi dễ mắc sai lầm.

Trong suốt cuộc đời ai chẳng có những lỗi lầm, với La Giang  khi đã mắc sai lầm hoặc có lỗi với người thân: La Giang thật thà, bộc bạch và đã được người thân yêu nhất: vị tha, san sẻ:

“…Cuộc sống đời thường tránh sao vụng dại

Em âm thầm với lẽ sống vị tha

Cam chịu, nhẫn, thương để vui cửa vui nhà

Xây hạnh phúc bền lâu mãi mãi…”

Cả cuộc đời là một chuỗi kiếm tìm: Kiếm tìm cái hay, cái đẹp, cái sắc thái gì đó cho riêng mình. Trong sự kiếm tìm ấy có thành công, có thất bại; đó là quy luật của mỗi chúng ta; với La Giang cái được đã là cuộc sống hiện tại, cái mất là quá khứ cho riêng mình:

“…Khi đã mỏi mệt trên hành trình tìm kiếm

Giấu vào nơi sâu thẳm nhất riêng mình…”

Và rồi thì:

 “…Không khiến ta phải nhói lòng tiếc nuối

Thôi cũng đành giấu mãi chốn hư vô…”

Hình như La Giang nói hộ mỗi chúng ta chăng?.

DÒNG CHẢY đã thể hiện một con người từng trải, sống, làm việc có tình người, có nhân, có đức, có thành công, có thất bại và  gửi tới bạn đọc một thông điệp sống:

“…Hãy vươn lên dù phút, giây nhỏ nhặt.

Sống ngẩng đầu – Khát vọng của lòng ta!”.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Hà Nội, 2/9/2017

 

Tin liên quan

Sập hầm, sập cả tình người
GIỚI THIỆU SÁCH

Sập hầm, sập cả tình người

03/10/2025
Đất và Máu – Tiểu thuyết của Đặng Huỳnh Thái đã được dịch sang ngôn ngữ Anh
GIỚI THIỆU SÁCH

Đất và Máu – Tiểu thuyết của Đặng Huỳnh Thái đã được dịch sang ngôn ngữ Anh

03/10/2025
Sách của tác giả Phan Văn Lai
GIỚI THIỆU SÁCH

Sách của tác giả Phan Văn Lai

03/10/2025
Sách của tác giả Dương Việt Tiến
GIỚI THIỆU SÁCH

Sách của tác giả Dương Việt Tiến

03/10/2025
Sách của tác giả Dư Phương Liên
GIỚI THIỆU SÁCH

Sách của tác giả Dư Phương Liên

03/10/2025

Bài nổi bật

Sách của tác giả Đặng Mạnh Đàm

Sách của tác giả Đặng Mạnh Đàm

03/10/2025
Thực trạng nghề biên kịch điện ảnh Việt

Thực trạng nghề biên kịch điện ảnh Việt

03/10/2025
“Anh Hoàng Xuân Thảo, Tiên Bồng đấy”…

“Anh Hoàng Xuân Thảo, Tiên Bồng đấy”…

30/09/2025

Chỉ đạo nội dung: Nhà văn CAO THÂM

Vận hành bởi CÔNG TY CP SÁNG TẠO IQ VIỆT NAM

Thư kí Tổng hợp: Nguyễn Trang Nhung

Địa chỉ: Số 5 ngõ 634/29/48 đường Kim Giang – phường Thanh Liệt, Hà Nội

Email: tacphammoi@gmail.com

Điện thoại: 0913841443 – 0984163636

Website đang làm thủ tục cấp phép, điều hành phi lợi nhuận bởi các tình nguyện viên.

Không có kết quả
Hiện thị tất cả kết quả
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU SÁCH
  • NHÂN VẬT
  • VĂN HỌC
  • NGHỆ THUẬT
  • VỀ TÁC PHẨM MỚI

Website hiện tại đang trong quá trình lập trình và chạy thử trên mạng internet