GIỚI THIỆU
Hồi kí “Chiến trường và quê hương” của Thiếu tướng – Anh hùng LLVTND Phan Văn Lai. Sách do TÁC PHẨM MỚI tổ chức bản thảo, thiết kế, chế bản và in ấn. Bài viết đọc tại lễ ra mắt cuốn sách “Chiến trường và quê hương” ngày 5/9/2025.
Trước tiên, tôi xin giới thiệu những đặc điểm nổi bật của tác giả Phan Văn Lai:
*Đặc điểm nổi bật thứ nhất: Thiếu tướng – Anh hùng LLVT Nhân dân Phan Văn Lai là tác giả cao tuổi nhất Việt Nam viết hồi kí. Hiện, Thiếu tướng 95 năm tuổi đời và 75 năm tuổi Đảng.
*Đặc điểm nổi bật thứ 2: Thiếu tướng Phan Văn Lai sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, gia đình Thiếu tướng có 4 anh em trai tham gia trong lực lượng vũ trang cách mạng. Trong đó, hai người con đã anh dũng hi sinh. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, có ba anh em ruột đều chiến đấu ở chiến trường miền Nam.
*Thứ 3: Gia đình Thiếu tướng có 2 mẹ con được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng. Đó là Mẹ Lê Thị Mỵ được Nhà nước truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” và con là Thiếu tướng Phan Văn Lai được Nhà nước phong danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”, năm 2016.
*Thứ 3. Gia đình có 2 cha, con được phong hàm Thiếu tướng trong lực lượng Công an Nhân dân là Thiếu tướng Phan Văn Lai (cha) và Thiếu tướng Phan Quốc Thái (con) (đề nghị Thiếu tướng Phan Hồng Thái đứng lên).
Bây giờ, tôi xin giới thiệu những nét nổi bật trong Hồi ký “Chiến trường và Quê hương” của ông.
Cuốn Hồi kí kể về cuộc đời và sự nghiệp của Thiếu tướng Phan Văn Lai với nhiều nội dung phong phú nhưng nổi bật là truyền thống yêu nước của quê hương, của gia đình và CHIẾN TRƯỜNG Trị Thiên – Huế, nơi ông 12 năm chiến đấu gian khổ ác liệt; nơi ông cùng đồng đội lập nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”.
Thiếu tướng Phan Văn Lai có nhiều miền quê, ông gắn bó máu thịt coi như quê hương.
– Quê hương thứ nhất là xã Phương Định, huyện Trực Ninh, Nam Định nhưng ông sinh ra và lớn lên ở thành phố Hải Phòng, đến năm 16 tuổi, ông mới trở về quê hương và tham gia hoạt động cách mạng.
-Tại Hải Phòng, gia đình ông có cửa hiệu kinh doanh phát đạt; nơi ông học hết lớp Đệ nhị Trường Bonanl và tham gia phong trào Hướng đạo sinh của Nhà cách mạng, Nhà hoạt động văn hóa xã hội Hoàng Đạo Thúy.
-Quê hương thứ ba là Hà Nam, nơi ông vào ngành Công an và tham gia chiến đấu cùng lực lượng Công an Hà Nam trong vùng địch hậu của giặc Pháp; nơi ông bén duyên với cô du kích sau này là người vợ thủy chung, đảm đang của ông. Hà Nam còn là nơi mẹ ông, vợ ông cùng các con ông đã sống gian khổ trong bom đạn giặc Mỹ và thời thời bao cấp.
-Quê hươg thứ tư là Thừa Thiên – Huế, nơi 12 năm ông chiến đấu gian khổ, ác liệt và được đồng đội, đồng bào yêu thương, đùm bọc, chở che…
Những quê hương trong Hồi ký của ông không hề có hình ảnh cuộc sống thanh bình, thơ mộng với dòng sông, con đò. Hình ảnh ảnh quê hương xuyên suốt cuốn sách là sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh và hình ảnh đồng đội cùng những người dân yêu nước ở Thừa Thiên – Huế sáng ngời tinh thần yêu nước và sự mưu trí, lòng dũng cảm trước quân thù.
Ông có tới bốn quê hương nhưng suốt hai cuộc kháng chiến, gia đình ông không có một ngôi nhà cố định. Thời Pháp thuộc, bố mẹ ông buôn bán ở TP. Hải Phòng, có nhà ở, có cửa hiệu. Nhưng gia đình ông là cơ sở bí mật của Việt Minh nên trong cuộc khủng bố của giặc Pháp năm 1946, cả gia đình bỏ nhà cửa, tài sản tản cư về quê và không trở lại Hải Phòng nữa. Ở quê, ngôi nhà các cụ để lại cũng bị giặc Pháp đốt cháy. Tiếp đó là những năm tháng mẹ ông và vợ ông sống tạm bợ nhiều nơi, tần tảo nuôi các con lớn lên đi đánh giặc; nuôi các cháu nội lớn lên trong bom đạn và trưởng thành.
Trong phần viết về quê hương, hình ảnh mẹ ông, vợ ông và những phụ nữ Huế như O Giáng, O Hạnh, vợ ông Hoàng Sa… sáng ngời những phẩm chất cao quý của Phụ nữ Việt Nam mà Bác Hồ dành tặng: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”.
II
Phần viết về chiến trường nổi bật nhất nên ông đặt tên sách là “Chiến trường và Quê hương”. Tác giả tình nguyện vào Nam chiến đấu khi đã có 3 con: con lớn Phan Quốc Thái, 5 tuổi; Phan Quốc Thịnh 3 tuổi; Phan Quốc Thắng mới sinh, chưa cai sữa và người mẹ già, đời sống gia đình hết sức khó khăn…
Cuộc chia tay với người vợ trước khi vào Nam chiến đấu thật cảm động. Ông đã làm thơ ghi lại khoảnh khắc cảm động đó như sau:
“Vì Tổ quốc bị quân thù chia sẻ
Cha ra đi cứu nước cứu nhà
Nhớ thương tình cảm chan hòa
Mong con khôn lớn nối dòng nghiệp cha
Tương LAI THẮNG lợi về ta
THANH bình nước THỊNH, THÁI hòa, yên vui”.
Ở đây tác giả “chơi chữ”: LAI, THANH, THÁI, THỊNH, THẮNG là tên tác giả, tên vợ và 3 con.
Chiến trường trong Hồi ký, cụ thể là chiến trường Trị Thiên – Huế, được ông tái hiện những trận đánh, những chiến công đặc biệt xuất sắc của lực lượng An ninh rất sinh động và chân thực. Đó là những trận đánh trong cuộc tiến công nổi dậy Mậu Thân 1968 như: Giải phóng Nhà lao Thừa Phủ giải thoát an toàn 2.300 cán bộ, đảng viên, du kích, cơ sở cách mạng, quần chúng bị địch cầm tù; tham gia xử lý phó Tỉnh trưởng; phân loại và đề xuất giải quyết đối tượng bị ta bắt và đầu thú; thu giữ và khai thác tài liệu của định v.v.
Sau Cuộc tiến công nổi dậy Mậu Thân 68, bọn địch bình định, mở những trận càn khốc liệt. Ông miêu tả những cảnh hiểm nguy khi giáp mặt kẻ thù; cảnh thiếu muối, thiếu gạo của lực lượng An ninh và niềm lạc quan của lực lượng Anh ninh trong hiểm nguy.
Những câu chuyện về chiến trong trong Hồi ký, dường như ông ít kể về mình, về chiến công của mình. Xuyên suốt tác phẩm, hình ảnh nổi bật với chiến công đặc biệt xuất sắc là những đồng đội của ông như đồng chí Bảy Khiêm, đồng chí Lê Văn Trĩ; đồng chí Hồ Sĩ Ba (sau này đồng chí được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT Nhân dân); đồng chí chí Tạo, đồng chí Mão v.v. và người dân Phú Vang (Thừa Thiên – Huế) yêu nước.
Ông kể, trong suốt thời gian bám trụ cơ sở, ông cùng các đồng đội thường xuyên phải đối mặt với các cuộc vây ráp, càn quét, xăm hầm bí mật của địch. Nhưng nhờ sự bảo vệ che chở của những người dân yêu nước mà ông cùng đồng đội vẫn tồn tại, hoạt động được ngay trong vùng địch kiểm soát gắt gao. Mãi mãi tôi không quên tấm lòng của ông bà Hoàng Sa; O Hạnh, O Giáng và người dân yêu nước Phú Vang. Nếu không có họ, ông và đồng đội ông bị sa vào tay giặc hoặc hi sinh
Chắc chúng ta vẫn nhớ bài thơ “Đất quê ta mênh mông” của Dương Hương Ly: “Nơi hầm tối lại là nơi sáng nhất/ Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam/ Trên nắp hầm/ Bầy giặc Mỹ xúm vào đánh mẹ/ Nửa lời không hé/ Mẹ lặng thinh trước những trận đòn thù”.
Đó là hình ảnh thật của vợ chồng ông Hoàng Sa ở Phú Vang đã nuôi dấu ông và đồng đội ông dưới căn hầm bí mật. Mặc dù bị địch tra tấn dã man, chúng còn hăm dọa bắn bỏ, đốt nhà, nếu không chịu chỉ hầm bí mật nuôi giấu Việt Cộng, nhưng ông bà vẫn một lòng một dạ, cam chịu cực hình để bảo vệ ông cùng đồng đội.
III.
Trong Hồi ký có một nội dung độc đáo và thú vị, đó là những bức thư ông gửi cho gia đình và thư vợ con gửi cho ông trong thời gian ông ở chiến trường. Điều đặc biệt là, thư ông viết cho mẹ, cho vợ, cho em trai, ngoài diễn đạt tình thương nhớ vô bờ, ông còn kể về tình hình chiến sự miền Nam, về lý tưởng và khát vọng cống hiến của người chiến sĩ cách mạng. Thậm chí, ông còn động viên vợ luôn sống “Cần – Kiệm – Liêm – Chính”. Thư của vợ ông cũng vậy, ngoài chia sẻ tình hình sức khỏe của mẹ, sự tiến bộ cho các con, vợ ông còn nói về sự hy sinh cao cả và cống hiến của những người vợ miền Bắc và nỗi khát khao mong mỏi nước nhà hòa bình thống nhất, gia đình đoàn tụ.
Thư của hai con trai ông kể chuyện nhà hồn nhiên, khoe mẹ đã làm nhà bằng gỗ xoan…đọc rất cảm động. Khi viết những bức thư này, Phan Quốc Thái học cấp 2, sau này là Thiếu tướng và Phan Quốc Thịnh học lớp 2, sau này là Thượng tá. Hai anh em đều là sĩ quan cao cấp trong lực lượng Công an Nhân dân.
Sau giải phóng miền Nam (30/4/1975), ông ở lại làm việc tại Ty Công an Thừa Thiên – Huế một năm. Năm 1976, ông được Bộ Công an điều động ra làm việc tại Vụ Nghiên cứu Tổng hợp, sau đó là Vụ Tổ chức Cán bộ rồi làm công tác Thanh tra của Bộ Công an. Thời kỳ này khá dài nhưng trong Hồi ký ông viết rất ngắn.
Tại cuộc tọa đàm về bản thảo cuốn Hồi ký này, với thành phần là những người thân thiết, từng làm việc với ông ở Bộ Công an, có người nêu ý kiến: Thời kỳ làm việc ở Bộ Công an, ông có rất nhiều thành tích; ông sống đức độ, liêm khiết. Vì thế, ông mới được Đảng bộ tín nhiệm liên tục bầu vào cấp ủy; được lãnh đạo Bộ bổ nhiệm làm Phó vụ trưởng, rồi trưởng Ban Thanh tra, Chánh Thanh tra, Phó Tổng Cục trưởng…Nhưng trong Hồi ký, giai đoạn này ông viết mờ nhạt quá, cần bổ sung, viết về thành tích của mình và cắt bỏ một số phần phụ lục để nội dung cô đọng hơn. Nhưng ông chia sẻ, mục đích chính của cuốn Hồi ký là để ông tri ân những vùng quê ông gắn bó yêu thương; để tưởng nhớ người đã cống hiến, đã hi sinh vì Tổ quốc và tri ân những người đã nuôi
nấng, che chở ông để ông chiến đấu đến ngày đất nước thắng lợi. Vì thế, ông không kể lể về thành tích của mình mà chỉ kể những kỉ niệm và bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình công tác.
Những kỉ niệm ông kể trong quá trình công tác có nhiều chuyện thú vị. Chẳng hạn:
-Khi thanh tra công tác quản lí trại giam, đoàn thanh tra phát hiện một nhân tố điển hình, được ghi nhận và thực hiện trong trại giam.
Thời kỳ này, Đại tá Tô Quyền làm Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý Trại giam đã cho phép các trại mở rộng việc cho thân nhân đến thăm, tặng quà, chia sẻ động viên lẫn nhau và cho phép phạm nhân được đọc sách báo, tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ để mở mang trí tuệ, nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.Thực tế cho thấy cách quản lý mới đầy tính nhân văn này đã góp phần tích cực vào kết quả quản lí, giáo dục, cải tạo phạm nhân.
– Chuyện Giám thị trại giam…“xé rào”, làm kinh tế phụ; Chuyện về Dũng “lò vôi”; Chuyện Phó Giám đốc Công an Phú Yên làm kinh tế phụ…
II Hoạt động sau khi nghỉ hưu:
Nét nổi bật của ông sau khi nghỉ hưu là làm Trưởng Ban Liên lạc Công an chi viện chiến trường miền Nam từ năm 2007 đến nay và làm chủ tịch, chu tịch danh dự của nhiều tổ chức xã hội của địa phương, quê hương ông.
Trong vai trò Trưởng Ban Liên lạc Công an chi viện chiến trường miền Nam thời kì chống Mỹ, ông đã cùng Ban liên lạc làm được những việc quan trọng:
-Xác định Ngày truyền thống Công an chi viện chiến trường miền Nam thời kì chống Mỹ, là ngày 21/2 hàng năm;
-Lực lương Công an chi viện chiến trường miền Nam thời kì chống Mỹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND (1/9/2000);
– Tiếp lửa truyền thống Công an Nhân dân tới hơn 3 nghìn tuổi trẻ CAND tại 24 tỉnh thành trong cả nước;
-Tri ân đồng đội: Có nhiều chuyện cảm động…
-Tham gia xây dựng tượng đài kỉ niệm Công an chi viện Chiến trường miền Nam;
-Xây dựng phòng trưng bày truyền thống LL công an Chi viện Chiến trường miền Nam.
Do thời gian có hạn, chúng tôi chỉ khái quát những nội dung chính trong cuốn sách. Xin được chúc mừng Thiếu tướng Phan Văn Lai.
Ngày 5/9/2025
Nhà văn Cao Thâm