GIỚI THIỆU TẬP THƠ “TIẾNG LÒNG” CỦA TRẦN VĂN KHIÊN
(Sách do TÁC PHẨM MỚI tổ chức bản thảo, in ấn và giới thiệu)
“Tiếng lòng” là tập thơ thứ 3 của Trần Văn Khiên do Nxb. Hội Nhà văn ấn hành, tháng 11/2024. Tập thơ có 117 bài diễn đạt nỗi niềm của tác giả với nhiều cung bậc cảm xúc về Tổ quốc nơi biên giới hải đảo; về thành phố Cảm Phả, nơi anh sinh sống và về làng quê Thái Bình, nơi anh sinh ra và lớn lên. “Tiếng lòng” còn chứa đựng nỗi lòng của tác giả với cha mẹ; với người vợ cùng con cháu thân thương; với bạn bè, đồng nghiệp và những buồn vui thế sự.
Tôi biết Trần Văn Khiên từ khi anh là thợ lò Công ty than Thống Nhất, thi thoảng gửi bài cho Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam, nơi tôi phụ trách nội dung. Ngày ấy, ngoài cộng tác với Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam, anh Trần Văn Khiên còn là thông tin viên của mỏ; cộng tác viên của Đài Truyền thanh Cẩm Phả và có bài đăng ở nhiều tờ báo trung ương. Trong những bài gửi cho Tạp chí, tôi đồng cảm và tâm đắc với những bài anh viết về nghề hầm lò, về thợ mỏ hầm lò.
Thợ mỏ sáng tác thơ rất nhiều. Nhưng thợ mỏ trực tiếp làm trong hầm lò trở thành Hội viên Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh từ trước đến nay chỉ có vài người, trong đó có Trần Văn Khiên, làm nghề nổ mìn trong hầm lò và Nguyễn Đình Thái (nguyên thợ lò Công ty than Hà Lầm). Có lẽ do tính chất đặc thù của nghề gian khổ, nguy hiểm và độc hại này nên thơ về nghề hầm lò, về thợ mỏ hầm lò rất hiếm. Thơ hay về đề tài này càng hiếm.
Trong tập thơ này, Trần Văn Khiên cho công bố loạt bài thơ về hầm lò. Tôi từng nhiều năm chỉ huy sản xuất dưới hầm sâu âm 97,5 mét nên thấu hiểu nỗi gian lao của nghề này qua thơ anh:
“Khi em cùng người yêu vào công viên, rạp hát
Chúng anh vào ca như đánh giặc
Vượt phay, dò túi nước ngầm
Xếp cũi lợn dưới tảng đá vách nứt toác đen ngòm”.
(Thợ lò)
“Phay” là hiện tượng đứt gãy của vỉa. Khi đào lò gặp “phay”, đất đá tụt lở, thợ lò phải mang gỗ xếp thành hình cũi lợn để chống sự tụt lở của đất đá. Đây là công việc vô cùng gian khổ và nguy hiểm.
Và đây là không khi sản xuất trong lò:
“Rộn ràng máy khoan mở vỉa
Âm vang tầm mìn rộn rã
Những đoản, những thìu
Náo nức chuyển luồng, sang máng”.
(Dưới lò sâu)
Và đây:
“Đi qua họng sáo, lò đầu
Đèn soi lò chợ rào rào khao than
Những khi áp má, cài chèn
Lên thìu, vào cột, có đèn em soi”.
(Gửi cô thợ đèn)
Trong hầm lò, có một nơi trực tiếp khai thác than, gọi là lò chợ. Trần Văn Khiên đã viết về lò chợ cuối năm như thế này:
“Tới tấp mảnh tiếp, mảnh chèn
Không hoa huệ hoa hồng
Bộn bề than lấp lánh
Cũi lợn gồng mình căng vách đá
Họng sáo lộng gió vi vu”
(Lò chợ)
Có thể bạn đọc không hiểu những thuật ngữ trong hầm lò như “đoản”, “thìu”, “mảnh tiếp”, “mảnh chèn”, “sang máng”, “chuyển luồng”…nhưng sẽ hiểu phần nào công việc gian khổ của thợ lò và không khí sản xuất rộn ràng trong lòng đất. Ở đây xin nói thêm về cái “họng sáo”. Trong ca khúc “Tôi là người thợ lò” của nhạc sĩ Hoàng Vân có câu: “Ơ, mỗi khi lò thủng/ Đón cơn gió nồm nam mát rượi”. Nhiều khán giả thắc mắc, sao trong hầm lò lại có “gió nồm nam”? Là vì, khi đào lò đối hướng, hai đường lò gặp nhau tạo lỗ thủng, luồng gió tươi từ ngoài trời vào, mát rượi như “gió nồm nam” vậy. Chỗ “lò thủng” ấy gọi là “họng sáo”. Trần Văn Khiên viết “Họng sáo lộng gió vi vu” là thế.
Công việc gian khổ, hiểm nguy nhưng thơ Trần Văn Khiên đầy lạc quan và kiêu hãnh:
“Người đẹp ơi, có biết?
Thợ lò chúng anh có bầu trời riêng
Có chung niềm vui, có chung niềm kiêu hãnh
Có ngọn đèn lò trên đầu lấp lánh
Xuyên thủng đá dày mở vỉa khao than”.
(Thợ lò).
Mảng đề tài thứ hai trong “Tiếng lòng” là cảm nhận tinh tế của Trần Văn Khiên về vẻ đẹp hùng vĩ và cuộc sống yên bình nơi biên cương, hải đảo. Đây là hình ảnh đỉnh Cao Ly thuộc huyện Bình Liêu, Quảng Ninh:
“Đường bê tông bàng bạc
Mắc võng hai đỉnh đồi
Cao Ly hơn nghìn mét
Mây vờn qua mặt tôi”.
(Đỉnh Cao Ly).
Và đây là Sa Vỹ, mũi đất ở cực Đông Bắc của Tổ quốc:
“Thủy triền đang lên
Bãi sú lô xô, đàn hải âu chấp chới
Mây xốp lang thang dọc chiều biên giới
Sa Vỹ thanh bình
Cột mốc thiêng liêng”.
(Sa Vỹ)
Trần Văn Khiên có hai nơi gửi gấm yêu thương, đó là Cẩm Phả, nơi anh sinh sống và Vũ Thư, Thái Bình, quê anh. Với Cẩm Phả, thơ Trần Văn Khiên cảm nhận về sự đổi mới của thành phố qua những địa danh như Hòn Hai, Vũng Đục, bến Do, về con đường mới mở:
“Ta đi trong khúc nhạc reo
Con đường lớn cõng bao nhiêu ân tình đời
Trên tầng nhẹ hạt mưa rơi
Gương thần lấp lánh sáng ngời niềm tin”
(Hát mừng TP Cẩm Phả )
Ngược lại, với quê hương Thái Bình là những hoài niệm về làng, về cha mẹ, về bạn bè một thuở:
“Bãi ngô xanh tím luống cà
Mấy ông bô lão khề khà đưa cay
Trầu têm cánh phượng khéo tay
Đỏ môi bà cụ chiều say đậm đà”
(Quê )
Và đây:
“Chặng đường xa dạ nao nao
Tranh quê gói lại đem theo bên mình”.
(Góc xuân)
“Bây giờ vườn cải đơm bông
Hương cau ngan ngát rải trong ngõ làng
Bờ đê nắng rộm mật vàng
Đôi con diều sáo mơ màng tầng không”.
Trong “Tiếng lòng” tôi tâm đắc nhất “tiếng lòng” của anh với cha, mẹ, với vợ con, với đàn cháu. Đây là hình ảnh đẹp về người cha (cha anh làm nghề dạy học; quê anh gọi cha là thầy):
“Bồng bềnh mái tóc pha mây
Một thời bụi phấn vẫn đầy lòng son
Ngẩng lên con ngỡ đỉnh non
Một cây đại thụ bóng tròn sum suê”.
(Thầy tôi)
Và đây là hình ảnh của mẹ:
“Mẹ môi trầu chắp tay đi lễ phật
Cây gậy góc hè lộc cộc theo đi”.
(Hội làng xưa)
Đây nữa là hình ảnh người vợ:
“Nắng chiều xiêu vẹo gót chân
Gió đông nắng hạ mưa xuân mặc đời
Đôi khi trái gió trở trời
Nồi xông mưa nắng trong người hắt ra
Rêu phong phủ tháng năm qua
Nhuộm thân cò vạc đẹp ra mấy lần”.
(Thương vợ)
Có một điều khiến tôi ngạc nhiên sau khi đọc “Tiếng lòng”, đó là một số bài thơ (một số ít) ở thể tự do anh diễn đạt còn sơ sài, cảm xúc chưa chín, thậm chí có câu còn nôm na. Ngược lại, những bài lục bát của anh thật nhuần nhuyễn; nhiều câu thật tài hoa.
Ở Tiên Yên, Quảng Ninh có loại bánh gật gù nổi tiếng. Anh viết:
“Lời người bịn rịn chia xa
Hẹn lần sau nhớ lại qua gật gù”.
Và đây:
“Bờ tre thương thưở đói nghèo
Lồng tên mấy đứa khắc vào thân cây”.
(Họp lớp)
“Mắt chân chim rớm giọt xưa
Men nồng nhòa cả nắng mưa một thời”
(Quê)
“Những hòn đá cuội ngẩn ngơ
Nắng tưng tửng nắng non mờ mờ non”.
(Lối mòn bản xa)
“Tháng mười cải đã lên ngồng
Cuối thu vàng rộm mé sông quê nhà”.
(Vắng)
“Vườn khuya con nhện giăng mành
Vẳng nghe cuốc gọi bạn tình đồng xa
Cánh xoan rơi tím sân nhà
Cành tre xào xạc trăng tà mé đê”.
“Trăng khuya một mối bòng bong
Có người ngồi gỡ những vòng heo may”.
(Thoáng qua).
“Tiếng lòng” còn có nhiều bài thơ hay về miền núi, về các di tích lịch sử, về thế sự…Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hà Nội, 12/11/2024
Nhà văn Cao Thâm